{tocify} $title = {Mục lục bài viết} 

1. Định nghĩa

Bổ pháp là dùng các vị thuốc chữa các chứng bệnh do công năng hoạt động của cơ thể bị giảm sút gây ra (gọi là chính khí hư)

Bổ phá gồm 4 loại: Bổ âm, bổ dương, bổ khí, bổ huyết

Pháp bổ trong y học cổ truyền


2. Ứng dụng lâm sàng

2.1 Bổ âm

Để chữa các bệnh gây ra do âm hư: người gầy, miệng khô, họng khô, ho khan hoặc ho ra máu, triều nhiệt, ngũ âm phiền nhiệt, ra mồ hôi trộm, gò má đỏ, mạch tế sác...hay gặp ở các bệnh: suy nhược thần kinh, tăng huyết áp, rối loạn giao cảm do lao, di tinh, đái dầm, ... dùng bài thuốc lục vị hoàn hay bài tả quy hoàn...

2.2 Bổ dương

Để chữa các chứng bệnh gây ra do thận dương hư, đau lưng, mỏi gối, sợ lạnh, tay chân lạnh, di tinh, hoạt tinh, liệt dương, ỉa chảy, tiểu tiện nhiều lần, mạch nhược. Dùng bài: Hưu quy hoàn hoặc bài Thận khí hoàn

2.3. Bổ khí:

Để chữa các chứng bệnh gây ra do khí hư: Hơi thở ngắn gấp, mệt mỏi ăn kém, chậm tiêu, ỉa chảy, cơ nhẽo, trương lực cơ giảm,... hay gặp ở các bệnh suy nhược cơ thể, rối loạn tiêu hóa, các chứng bệnh do trương lực cơ giảm: sa dạ dày, sa trực tràng, sa sinh dục... Dùng bài tứ quân tử thang

2.3. Bổ huyết

Để chữa các bệnh gây ra do huyết hư, sắc mặt vàng héo, móng tay móng chân khô, môi nhạt nhức đầu, chóng mặt hoa mắt, kinh nghuyệt ít, sắc kinh nhạt... Hay gặp ở các bệnh thiếu máu, phụ khoa, teo cơ, cứng khớp,...

Chú ý:

- Ngoài 4 phương pháp bổ đã nêu trên, người ta còn dùng các hình thức bổ khác như: bổ trực tiếp vafp tạng phủ hay được dùng với các loại thuốc động vật, bổ tạng phủ theo cơ chế ngũ hành tương sinh như phế hư thì kiện tỳ vì tỳ thổ sinh phế kim.

- Khi dùng phép bổ bao giờ cũng chú ý đến công năng của tỳ vị, vì tỳ vị thuộc thổ sinh ra tất cả, nếu tỳ vị hoạt động tốt thì uống thuốc và ăn uống mới hấp thu được.