Hư và thực là hai cương lĩnh để đánh giá trạng thái cơ thể người bệnh lúc mắc bệnh.

Chính khí hư, sức đề kháng của cơ thể yếu, thường gặp ở người bệnh lâu ngày biểu hiện hư chứng, tà khí mạnh và sức đề kháng của cơ thể còn mạnh thì biểu hiện thực chứng. 

Dựa vào hư hay thực mà đề ra phép bổ hay tả

Hư và thực trong y học cổ truyền


1. Hư chứng

Cơ thể suy yếu, chức năng các tạng phủ giảm sút, mạch vô lực

- Biểu hiện lâm sáng:

Mệt mỏi, lười hoạt động, tinh thần ủ rũ, ít nói, tiếng nói nhỏ, hơi thở ngắn, ra mồ hôi nhiều, sắc mặt tái xanh, chất lưỡi nhạt, lưỡi thon hoặc bệu, mạch nhỏ yếu, thường gặp sau khi mắc bệnh nặng, bệnh kéo dài, hoặc người già yếu

2. Thực chứng

Sức tấn công của tà khí mạnh, bệnh mới mắc, thời gian ngắn, cơ thể còn khoẻ, phản ứng mạnh.

- Biểu hiện lâm sàng: 

Thể trạng tốt, tinh thần lanh lợi, tiếng nói to, thở thô, sốt cao, mặt đỏ, đau cự án, rêu lưỡi vàng, mạch có lực, thường gặp trong hội chứng đàm ẩm, thuỷ thũng, khí trệ huyết ứ, thực tích, trùng tích. Bệnh cấp tính.

3. Hư thực thác tạp 

Trên lâm sàng thường gặp các hội chứng thượng thực hạ hư hoặc trong thực có hư, trong hư có thực. Chứng thực và chứng hư cùng tồn tại. 

Ví dụ: Bệnh xơ gan cổ trướng, người bệnh gầy, sắc da xanh vàng, nhợt nhạt mệt mỏi ót ăn mạch trầmm tế vô lực (chứng hư) nhưng bụng to đầy nước, ngực sườn đầy tức (thực chứng) phép chữa phải vừa công vừa bổ hoặc trước bổ sau công.

4. Hư thực chân giả

Cũng cần chú ý phân biệt trên lâm sàng

- Chân hư giả thực: Bệnh nhân nói nhiều nhưng hơi thở ngắn, bụng đầy đau nhưng có lúc không đầy, ấn xoa giảm đau, lưỡi bệu, mạch vô lực

- Chân thực giả hư: Bệnh nhân ít nói nhưng nói to, ăn không ngon miệng nhưng vẫn ăn được nhiều, đau bụng ỉa chảy nhưng đại tiện xong thì dễ chịu mạch có lực.